Theo phong tục xưa, trong khoảng ba năm để tang cha mẹ, con cái không thể lên kinh ứng thí, thậm chí còn không được ở trong nhà mà phải làm lều cỏ bên mộ phần cha mẹ để trông nom, chăm sóc.
Đối với chúng ta ngày này, đây là việc ngoài sức tưởng tượng…
Cổ ngữ có câu: “Bách thiện hiếu vi tiên”, đối với cổ nhân mà nói thì trăm cái đức, ngàn cái hạnh cũng không có cái nào có thể sánh bì với việc thủ hiếu giữ đạo làm con. Ngay cả các bậc vua chúa cũng luôn thủ đạo hiếu con, lấy thân làm mẫu cho vạn dân noi theo. Ở đây có thể kể đến những bậc hiền nhân xưa như vua Trần Anh Tông. Vua Trần Anh Tông vốn dĩ ham mê uống rượu, nhưng vì một lần say rượu làm lỡ mất dự chầu, khi đó bị thái thượng hoàng Trần Nhân Tông trách phạt. Vua Trần Anh Tông phải quỳ gối và dâng biểu tạ tội kiểm điểm bản thân mới được tha lỗi. Và cũng kể từ đó, vua Trần Anh Tông quyết tâm không uống rượu nữa. Mặc dù ở ngôi cao, vua Trần Anh Tông vẫn tôn trọng đạo hiếu, tuân theo lời dạy bảo của cha.
Hay như vua Tự Đức, đây có lẽ là ông vua duy nhất bị mẹ đánh đòn trong lịch sử nước ta. Năm đó, vua Tự Đức đi săn, chẳng may gặp phải trận lụt bất ngờ, không thể về kịp lo liệu ngày kỵ của tiên hoàng Thiệu Trị. Sau khi về đến cung điện, nhà vua vội vàng đội mưa đến quỳ tạ tội với mẹ là thái hậu Từ Dũ. Ông còn chủ động dâng roi mây, nằm xuống chịu đòn.
Nói đến chữ hiếu, chúng ta cũng không thể không nhắc tới Nguyễn Trãi, ông là tấm gương trung hiếu vẹn toàn trong lịch sử. Khi cha là Nguyễn Phi Khanh bị giặc Minh bắt, Nguyễn Trãi đi theo cha đến ải Nam Quan, muốn cùng cha sang tận Trung Quốc hầu hạ nhưng cha ông khuyên ông trở về lo mưu nghiệp lớn chống Minh. Nghe lời cha dặn, Nguyễn Trãi nếm mật nằm gai 16 năm ròng, sau này ông đã bày mưu tính kế, góp phần quan trọng giúp nghĩa quân Lam Sơn giành thắng lợi.
Đối với người xưa, việc bất hiếu là một đại tội không thể dung thứ, việc hiếu kính cha mẹ không chỉ là việc chăm sóc cha mẹ chu đáo về tinh thần và vật chất khi còn sống mà bao gồm cả việc lo tang hậu sự cho cha mẹ khi đã mất.
Vậy ý nghĩa sâu xa của việc thủ tang này ra sao?
Việc thủ hiếu ba năm của cổ nhân chủ yếu là mang hàm nghĩa hoàn ơn cha mẹ nuôi nấng sinh thành. Khi con cái sinh ra ba năm đầu, cha mẹ mới yên tâm để con cái rời xa vòng tay của mình mà chạy nhảy, đặc biệt thời xưa không có sữa để ăn ngoài, người mẹ phải nuôi con bằng sữa mẹ trong suốt ba năm. Vậy nên trong khoảng thời gian này cha mẹ phải vất vả bội phần, thức khuya dậy sớm chăm bẵm, cho con ăn, cho con ngủ, đêm hôm chăm sóc tã quần, thậm chí khi con tè dầm, đái dắt cha mẹ đã phải nhường con chỗ khô, mình nằm chỗ ướt.
Vì ơn sinh dưỡng của cha mẹ là không gì sánh nổi, thế nên sau khi cha mẹ mất, con cái phải thủ tang ba năm, đây cũng là ba năm hoàn nghĩa sinh thành chăm sóc khi xưa. Nếu như không thủ được lễ ba năm này thì sao có thể gọi là hiếu tử? Tuy nhiên theo sự thay đổi của xã hội, con người cũng ngày càng trở thành khác biệt, chữ hiếu ngày nay nó đã phần nào trở thành hình thức.
Kỳ thực, ba năm thủ hiếu này không chỉ là việc hoàn ân trả nghĩa cho cha mẹ mà còn là thời gian để con người cảnh tỉnh chính mình, có thời gian tĩnh tâm suy nghĩ về đường đời. Nó cũng như một lời nhắc nhở chúng ta rằng: Nhân sinh tại thế, sinh tử vô thường, đến đi vô định.
Khi một người có thể hiểu ra đời người sống tại thế gian, mọi thứ thật vô thường ngắn ngủi, họ sẽ suy nghĩ nghiêm túc hơn nữa về đường đời của mình, suy nghĩ về ý nghĩa của cuộc sống, suy nghĩ về những bon chen được mất hơn thua trong cuộc đời, và từ đó thay đổi bản thân. Đua tranh danh lợi dẫu có được thì cũng lợi bất cập hại, khi nhắm mắt xuôi tay, tiền vàng danh vọng chẳng thể mang theo. Tuy nhiên việc làm ác, gây nghiệp thì phải hoàn trả, đó là điều không thể tránh, dẫu đời này không trả thì đời sau vẫn phải đền.
Trong thời gian để tang có phải thường gặp điều không may?
Thời gian để đại tang là 3 năm, nhưng trên thực tế thì người ta chỉ để đại tang có 27 tháng. Trong thơ thì nhà thơ Hồ Xuân Hương cũng đã nói đến vấn đề này. Khi ông Phủ Vĩnh Tường mất thì bà làm bài thơ để khóc ông ta trong đó có hai câu nói về việc để tang. Đại tang dành cho con cái để tang cha mẹ ruột và cha mẹ nuôi, nàng dâu để tang cha mẹ chồng hay vợ để tang chồng hoặc cháu đích tôn thừa trọng để tang ông bà.
Về vấn đề để tang có thường gặp chuyện chẳng lành hay không quan điểm của nhà Phật cho rằng tâm hiếu là tâm Phật và hạnh hiếu là hạnh Phật. Để tang là việc làm biểu thị tình thương yêu cũng như lòng biết ơn và lòng hiếu thảo đối với người quá cố. Đó là nghĩa cử cao đẹp và là nhân thiện. Trên đời này không thể có chuyện trồng cây quýt chua mà có thể hái được quả cam ngọt hay leo trên cây mà bắt được cá cũng như lội dưới nước mà mò được trăng.
Theo luật nhân quả của đạo Phật thì chúng ta gieo nhân nào gặt quả nấy. Nhân thiện khi mà nhân tốt lành ắt sinh ra quả thiện, quả tốt lành. Nhân thiện chắc chắn không thể sinh quả bất thiện được. Trong thời gian tang chế nếu bản thân chúng ta có gặp những điều không may thì chẳng qua đó cũng chỉ là trùng hợp ngẫu nhiên. Đúng hơn là khi có người thân vừa qua đời thì trong lòng chúng ta còn vương vấn nhớ thương đau buồn, làm ảnh hưởng đến đời sống tâm lý và dẫn đến một số quyết định trong công việc thiếu sáng suốt, mang lại kết quả không như ý của chúng ta. Còn nói theo lý nhân quả, thì cái nhân xấu ta gieo trước đây, giờ đã đến thời gian trổ quả. Quả xấu ấy lại rơi vào đúng thời gian tang chế khiến ta cảm thấy hoang mang, lo sợ và lầm tưởng rằng mang tang hay gặp chuyện xui xẻo.
Sưu tầm